Thứ Hai, 15 tháng 6, 2009

Bạn văn 20


1.Tối nay lọ mọ thế nào lại vào được blog Hoàng Cát, dưới cái avartar có ghi “Nhà thơ Hoàng Cát, gần cây táo ông Lành” chợt phì cười, thế là bỏ hết việc viết về anh.


Quen anh đã chẵn ba chục năm, nói thân thì không mà sơ cũng chẳng phải, có lẽ quí nhau thì đúng hơn. Lần đầu gặp anh năm 79, kéo anh vào quán nước chè, anh nói chè cháo chi hè, để tau mời mi chén rượu trắng. Anh nói nói cười cười, ôm vai hót cổ như anh em thân thiết lâu ngày, dù mình chỉ là thằng sinh viên, anh thì đã nổi tiếng khắp nước.


Anh nói tụi bay đẹp trai nhưng răng đẹp trai bằng tau được hè, ầy, hồi trẻ tau đẹp rụng rời, ầy, con gái xách dép chạy theo tau cả đoàn, chỉ nội yêu chúng nó không thôi  cũng đủ nhọc, ầy, nhọc lắm nhọc lắm. Rồi anh kể tau mần như ri, tau mần như kia. Biết anh bốc phét nhưng buồn cười, cứ há mồm há miệng nghe anh kể.


Hơn năm sau mới phát hiện ra anh đi chân giả, cái chân gỗ dấu trong ống quần, anh đi lại nhẹ nhàng như còn nguyên xi hai chân thật. Có lẽ Hoàng Cát là người duy nhất đi chân gỗ như chân thật trong rất nhiều người đi chân gỗ mà mình gặp. Khen thì anh cười hè hè, nói ầy, gái còn lầm, tụi bay là cái chi.


Anh đi lính từ năm 65, đánh nhau ở chiến trường Bình Trị Thiên, năm 69 bị thương cụt chân, năm 71 xuất ngũ về Hà Nội viết báo làm thơ ầm ầm, tiền bạc tên tuổi đang lên phơi phới thì mắc nạn Cây táo ông Lành,  tụt xuống đáy bể khổ từ đó, suốt hai chục năm không cách gì có thể ngóc đầu lên được.


Mình đã đọc đi đọc lại cái chuyện thiếu nhi đó, nghĩ mãi không ra tại sao người ta chụp cho anh đủ thứ chống. Có người bảo  Hoàng Cát nói xấu Tố Hữu, bị Tố Hữu dần cho tan xương nát thịt chứ sao. Hồi đó truyền tụng câu đối như một lời nhắn nhe tới Tố Hữu: “ Hoàng Cát không viết điều hung/ ông Lành chớ  làm việc dữ”.


 Sau này mình gặp Tố Hữu, hỏi thì Tố Hữu nói bậy, Hoàng Cát nó khen tôi chứ đâu có nói xấu tôi. Mình không tin, hỏi Hoàng Cát, anh nói ầy, Tố Hữu không mần chi tau mô, mình nói rứa thì ai, anh nói oa chà một ông to lắm. Dần dà mới biết có một ông to gấp mười Tố Hữu đã xuất chưởng, may anh là thương binh không thì đi đời nhà ma từ tám hoánh.


Cái số Hoàng Cát thật không may, vào chiến trường yêu một em xinh đẹp, chưa kịp cầm tay nắm chân đã bị thương, chuyển hết viện này sang viện khác, thất lạc nhau kẻ Nam người Bắc, cuộc tình chưa kịp nở đã tàn. Tưởng què cụt không ai lấy, về Hà Nội cưới được vợ mừng hết lớn, đám cưới lại trúng ngay đêm Mỹ thả bom phố Khâm Thiên năm 72. Vợ vừa có chửa lại lâm nạn, lại mất việc làm, lại bị treo bút, hai chục năm trời đói rách lầm than.


Bị treo bút cũng chỉ là cách nói, chẳng có cái lệnh nào từ trên xuống, cũng chẳng ai ra quyết định kỉ luật gì. Thời đó hễ ai đó có tiếng ồn ra là thành phần bất hảo, lập tức báo chí xuất bản cứ thế lẳng lặng đưa ngay người đó vào sổ đen, tuyệt giao thẳng cánh.


Cũng vì không có quyết định kỉ luật để biết thời hạn kỉ luật là mấy năm, thành ra cái án cứ treo lửng lơ hết năm này sang năm khác. Nếu đất nước không đổi mới năm 89 thì không biết cái án treo bút các anh Phùng Quán, Trần Dần, Hoàng Cầm… còn kéo dài đến bao giờ, Hoàng Cát cũng thế.


 Đừng nói tại cấp trên, tại anh em mình cả thôi, cũng chỉ vì sợ bóng sợ vía mà làm khổ nhau, bây giờ có ai trách thì đổ hô cho tại cấp trên dọa này dọa nọ.Cấp trên nào có thì giờ đi dọa tào lao chi khươn kiểu đó, ôi giời là buồn.


Người ta nói phúc bất trùng lai họa vô đơn chí quả nhiên đúng, người ta thương binh bị phần mềm cũng được trợ cấp này nọ, anh cụt hẳn một chân chẳng ai cấp cho một xu. Mười bảy mười tám nghề đã trải, toàn những nghề lặt vặt nhưng chẳng  nghề nào được xuôi chèo mát mái. Buôn lợn bị lừa, dán tem thuốc bị phạt, nhổ lông bì lợn bị mất… đến mở cái quán chè chén cũng luôn luôn gặp rắc rối, không bị đuổi chỗ thì bị mất tiền, bị quịt nợ, bị gây sự đủ điều. Nghe mà phát sợ.


Cũng giống anh Hoàng Bình Trọng ở Quảng Bình, hình như khổ đến kiệt cùng Hoàng Cát còn chẳng biết khổ là gì nữa. Chưa bao giờ thấy anh kêu khổ, toàn thấy anh kêu khổ giùm bạn bè, nói thằng ni, thằng tê khổ lắm bay ơi, đưa mô có giúp hắn với bay nờ.


Thơ vẫn viết, rượu vẫn uống, uống say thì hú hét hát hò, ba hoa bốc phét chuyện gái gẩm mua vui, nói con này lá tre con kia lá mít hay lắm hay lắm, tau mần như ri tau mần như tê đã cái mớ đời bay ơi. Đang ba hoa chích chòe, hễ ai nhắc đến vợ con thì mặt đờ ra giống như vừa nghe danh thánh thượng, đủ biết anh yêu vợ con đến nhường nào.


Cũng đúng thôi, nhờ có vợ con  anh mới sống đến tận bây giờ, làm thơ viết văn đến bây giờ, sáu bảy  tập thơ in được cũng nhờ vào tay vợ con cả. Có lẽ nói anh ngưỡng mộ vợ con thì đúng hơn. Con gái anh làm phát thanh viên tiếng Anh, đến chương trình của con, trên ti vi con đứng nói, dưới nền nhà bố ngồi ngước mặt nhìn con, hơm hớp từng tiếng một.


 Con giỏi tiếng Anh, bố cũng bò ra phục hồi tiếng Pháp, món ngoại ngữ bỏ mấy chục năm tưởng quên sạch bỗng nhiên khôi phục được. Giờ uống đâu hễ say là anh toàn xì xồ tiếng Pháp, đôi khi thấy anh như người cuồng, xồ ra nửa Việt nửa Pháp, nói tụi bay ơi… on dit souvent que… argent ne fait pas le bonheur… nhưng moa chỉ thích tiền thôi.


Có một người nữa khi đang vui hễ ai nhắc đến là mặt Hoàng Cát cũng đờ ra, đó là Xuân Diệu. Ai cũng biết Hoàng Cát và Xuân Diệu là anh em kết nghĩa nhưng quan hệ của họ đã vượt quá tình anh em, đạt đến cái gọi là tình yêu, có lẽ điều này thì nhiều người không biết.


Năm 1958 Hoàng Cát mới 17 tuổi, trâu bị lạc, anh tất tả đi tìm thì gặp Xuân Diệu đang ngồi nghỉ dưới tán cây giữa cánh đồng làng anh. Xuân Diệu đi thực tế về Nghệ An, tay cầm cặp bánh chưng, anh cho Hoàng Cát một cái bánh, lần đầu tiên Hoàng Cát biết bánh chưng ngon đến chừng nào.


 Từ đó anh em thân nhau, rồi yêu nhau, chính xác chỉ có Xuân Diệu yêu Hoàng Cát, còn Hoàng Cát suốt cả đời mình chỉ biết thương Xuân Diệu, thương đến vô cùng. Thương quá hóa chiều, Hoàng Cát chỉ chiều yêu Xuân Diệu mà thôi.


Hôm vừa rồi nhậu ở nhà thằng Đạo ( Trần Quang Đạo), Hoàng Cát say, đang hú hét ồn ào bỗng nghe ai đó  nhắc đến Xuân Diệu, anh chợt   ngưng lại rưng rưng, nói tau thương Xuân Diệu lắm bay nờ, bay đừng nói nữa mà tau khóc.


Và anh khóc thật, nước mắt chan chứa, vừa khóc vừa đọc bài thơ Xuân Diệu viết tặng anh 45 năm về trước, ngày anh lên đường nhập ngũ. Anh nói ầy, tau không yêu Xuân Diệu theo kiểu trai gái yêu nhau, ầy, nhưng mà tau thương, thương lắm bay nờ


          Mình hỏi rứa Xuân Diệu có yêu anh không,  Hoàng Cát nói yêu chơ, Xuân Diệu yêu tau thiệt mà, yêu lắm mi nờ.


2. Một bài thơ Xuân Diệu tặng Hoàng Cát


  


  


XUÂN DIỆU


 


 


 


 


EM ĐI


 


Em đi, một tấm lòng son mãi


Như ánh đèn chong, như ngôi sao;


Em đi, một tấm lòng lưu lại


Anh nhớ thương em, lệ muốn trào.


 


Ôi Cát! Hôm vừa tiễn ở ga


Chưa chi ta đã phải chia xa


Nụ cười em nở, tay em vẫy


Ôi mặt em thương như đoá hoa.


 



Em hỡi! đường kia vướng những gì
Mà anh mang nặng bước em đi?

Em ơi! anh thấy như anh đứng


Ôm mãi chân em chẳng chịu lìa!


 


Nhưng bóng em đi đã khuất rồi


Đứt là khúc ruột của anh thôi


Tình ta như mối dây muôn dặm


Buộc mãi đôi thân, dẫu cách vời!


 


Em hẹn, sau đây sẽ trở về


Sống cùng anh lại những say mê


Áo chăn em gửi cho anh giữ


Xin giữ cùng em cả hẹn thề.


 


Một tấm lòng em sâu biết bao!


Anh thương em mãi, biết làm sao?


Em đi xa cách, em ơi Cát


Em chớ buồn nghe, anh nhớ, yêu!


 


                             7-1965


 


 Sáng tác của Hoàng Cát


 


1- Tháng Giêng dai dẳng – thơ-NXB Văn hoá 1991; 2- Ngôi sao biếc- thơ- NXB Văn học 1994; 3-Mùa thu, tình yêu, cuộc đời – thơ- NXB Hội Nhà văn 1998; 4- Thì hãy sống- thơ- NXB Thanh niên 2002; 5 - Cảm ơn vỉa hè- thơ NXB Hội Nhà văn 2004; 6- Thanh Thản- thơ- NXB Hội Nhà văn 2006;  7- TUYÊN TẬP THƠ HOÀNG CÁT, NXB Hội Nhà văn 2009 ;và tập truyện "Chuyên tình của Xin", NXB Thanh niên 2005; và hàng ngàn bài báo đủ các đề tài, các vấn đề........


 3.Do bạn đọc có nhu cầu muốn biết truyện cây táo ông Lành, bọ đã mày mò tìm nó, đánh máy lại, post lên đây cho mọi người đọc



CÂY TÁO ÔNG LÀNH


 

                                                                   Truyện ngắn của HOÀNG CÁT

 

Tên thật ông là gì, nhiều người không biết. Đã từ lâu, người ta vẫn quen gọi ông là ông Lành. Vì tính ông hiền lành và rất yêu lũ trẻ trong làng. Lâu dần, nó thành ra tên của ông.

Vườn nhà ông khá rộng, có nhiều cây ăn quả như chuối, mãng cầu, vú sữa, táo…Ông Lành thú nhất là cây táo lai. Nó đứng ở góc vườn, trùm cái tán khum khum lên một vạt đất chừng dăm tấm chiếu. Cạnh cây táo quý ấy, ông đã cất lên một căn nhà ba gian, hai chái; chung quanh tường xây gạch, mái còn tạm lợp tranh. Ấy là căn nhà ông làm chuẩn bị cho cậu con trai duy nhất của ông lấy vợ, ở riêng. Nhưng nhà vừa làm xong thì thằng Sửu lại xung phong vô bộ đội đợt đầu tiên, kể từ sau khi có lệnh hoà bình của Chánh phủ cách mạng lâm thời.Thế là ngôi nhà đành tạm để không. Và nó được mang mãi cái tên “Nhà mới”. Mặc dù cho đến nay, mái tranh của nó đã có đôi chỗ dột vì chuột bọ, vì thiếu hơi người ở.

Cây táo quý đứng ngay góc sân ngôi nhà mới ấy. Cây táo càng đẹp thêm, và ngôi nhà cũng đẹp thêm.

Mé dậu vườn là con đường ống chạy xuyên qua làng. Sáng sáng, lũ trẻ học trò lớp Một đi tắt qua đấy để đến trường. Bao giờ chúng cũng đi thật sớm, tíu tít như một đàn chim, vồ lượm những quả táo rụng.

Vốn là một ông già yêu trẻ, ông Lành lấy thế làm niềm vui. Nhiều khi đứng trong cửa sổ nhìn ra, ông thấy lũ trẻ lấy gạch ngói, đất đá hoặc que khăng ném cho táo rụng xuống để lượm được nhiều. Ông cũng chẳng la mắng chúng nó làm chi. Ông hiểu, lũ trẻ thích ăn táo lắm. Chỉ những đứa trẻ nào nghịch quá , ném vung đất đá vào sân hay làm rơi hỏng mái tranh ngôi nhà mới của ông, thì ông mới nhẹ nhàng bảo chúng đừng ném nữa. Lũ trẻ cũng biết nể ông, ông chỉ cần nhắc một lần là chúng ngoan ngoãn rủ nhau kéo đi. Chúng vừa đi, vừa ăn táo, và “nhồm nhoàm” trêu chọc lẫn nhau. Rồi chúng đuổi nhau chạy. Rồi chúng cười. Rồi chúng hát nghêu ngao…

Những lúc thảnh thơi, ông Lành nhìn lũ trẻ hò nhau nhặt táo rụng mà càng thêm ao ước một ngày gần đây thằng Sửu về cưới vợ; rồi ông sẽ có những đứa cháu cũng líu lo như thế. Ước mơ ấy luôn cho ông niềm vui ngầm trong bụng.

Bà vợ ông đã chết vì bom toạ độ Mỹ từ mùa gặt năm 1967, đúng vào kỳ cây táo sai quả nhất. Thằng Sửu của ông cũng đã đi thoát ly, vào quân chủ lực. Chỉ còn lại mình ông. Nỗi thèm khát có đứa cháu bên cạnh cho ấm áp tuổi già, càng lúc càng âm ỉ trong lòng ông Lành. Những đêm sương nặng hạt, nằm không ngủ được, lắng nghe tiếng táo rụng lộp bộp ngoài vườn lẫn với tiếng sương rơi, ông Lành chỉ mong chóng sáng để được thấy lũ học trò đi qua nhặt táo…

Nhưng một buổi sáng ông đang ngồi hí húi vót lạt mây để buộc cái nạng, chống cho cây táo đỡ ngả xuống vườn vì nặng quá, thì bỗng “bịch rộp!” - một hòn đất rơi trúng đầu ông, tung toé cả lên vai, lên gáy! May mà hòn đất bở, không to lắm, chứ không thì có lẽ ông đã té xỉu xuống rồi. Thế mà cũng choáng váng mất một lúc. Vừa ngẩng lên, ông Lành thấy thằng Thìn đang trân trân nhìn ông, vẻ hối hận lắm. Nó lắp bắp:

-Cháu…cháu lỡ!... Ông tha…

Đang cơn bực mình, ông Lành ném cây rựa xuống sân đánh “phựt” , đứng phắt lên:

-Ông, ông cái con khỉ!...

Hoảng quá, thằng Thìn co giò bỏ chạy.

Cũng vừa lúc ấy, nó gặp lũ bạn ngoài ngã ba cây bông điệp. Nó cản các bạn lại, làm ra vẻ bí mật:

-Nè, chúng bay à! Tao đi qua cây táo ông Lành vừa nãy, mà sợ quá, phải chạy lui đó nghe!

-Sao?

-Gì thế? Cái gì thế?

Lũ bạn nhao nhao lên hỏi, đầy vẻ băn khoăn và sợ hãi.

Thắng thìn, cậu bé lên tám, mắt tròn ấy, bấy giờ mới một tay kéo quần, một tay vừa ôm vở, vừa vung lên làm hiệu và nói như thật:

-Tao đi qua cây táo ông Lành, tưởng như mọi khi, tao vô lượm trái rụng. Bất chợt có tiếng “ư hừm!”rõ to! Mà giọng nó ồ ồ kỳ lắm! Tao tưởng là ông Lành đùa. Nào ngờ, nhìn khắp mà chẳng có ai hết. Tao lại nghe “ư hừm” thiệt to và kéo dài lượt nữa; chừng như có người nào ngồi trên cây táo. Tao mới nhìn lên, thì eo ôi! Một cái sọ dừa đen ngòm trên ấy nó trêu tao! Tao sợ hết hồn, co cẳng vùng chạy một mạch tới đây. Hú vía!

Thìn kể say sưa và hồi hộp thật. Các bạn nó ngơ ngác nhìn nhau, giọng se sẽ thì thào; có đứa tái mét cả mặt:

-Vậy làm sao mà tới lớp bây giờ?

Thìn liền láu lỉnh:

-Đây có phải là đường chính của chúng mình tới Trường đâu. Đường chính là đường to, vòng quanh làng chứ. Đường qua vườn ông Lành là đường tắt cho nhanh!

Lâu nay lũ trẻ quen đi đường tắt này, vừa nhanh lại vừa được lượm táo. Bây giờ, nghe Thìn nói vậy, cả lũ réo lên:

-Thôi! Bỏ đường cây táo ông Lành!

-Bỏ thôi!

-Bỏ! Bỏ!

Vậy là lũ trẻ quay ùa ra đường cái, vòng quanh làng.

Riêng có thằng Tỵ và thằng Ngọ chưa tin hẳn lời thằng Thìn, bèn rủ nhau bò tới rình xem. Chỉ một lát sau, hai đứa vội vàng co giò chạy trở lại; càng làm cho lũ trẻ tin chuyện cái sọ dừa đen trên cây táo là có thật.

Từ đó , đường qua vườn ông Lành vắng hẳn.

Những quả táo chín, rơi vàng cả một góc sân ngôi nhà mới, rơi cả ra đường…

Ông Lành nhìn táo rụng vàng ối, mà chẳng có trẻ nhặt, lòng dạ không đành.

Đêm nằm nghe tiếng táo rụng với tiếng sương rơi lộp bộp ngoài vườn, ông thắc thỏm đoán ngày mai thế nào lũ trẻ cũng đến lượm, hò reo, hí hửng với những túi táo đầy. Nhưng đã hết năm ngày , năm đêm rồi , mà vẫn không nghe tiếng chân lũ trẻ  đi qua nhà ông để đến trường nữa, chứ đừng nói là chúng vào lượm táo

Ông Lành ân hận. Hay là thằng nhóc ấy đã nói với lũ bạn nó thế nào, để tất cả lũ chúng giận ông? Mà ông đã làm gì nó kia chứ! Một cục đất rơi thẳng vào đầu, chứ có phải chuyện chơi đâu.

Chưa biết căn nguyên vì sao lũ học trò lớp Một trong làng lại không đi qua nhặt táo rụng nữa, nhưng ông Lành cũng mang cái rổ ra lượm tất cả táo trên sân, trên vườn, rửa sạch sẽ. Thế nào rồi cũng có lúc chúng nhớ mà đi qua chứ.

Ông vừa làm xong việc đó được một lúc , thì chợt thấy thằng Mùi hớt hơ hớt hải cắp sách chạy qua. Nhưng nó không đoái hoài đến cây táo. Ông Lành liền gọi giật nó lại:

-Nè con!

Thằng Mùi ngoái đầu, “dạ” một tiếng rõ to, rồi định quay đi chạy thẳng. Nhưng ông Lành đã kịp bưng rổ táo chín múp chạy tới , giữ nó lại. Thằng Mùi tròn mắt, không dám lấy:

-Táo có ma đầu-lâu-đen, cháu không ăn đâu ông ạ!

Ông Lành ngạc nhiên:

-Ai bảo mày thế?

-Thằng Thìn! Hôm kia nó đi sớm, vào lượm táo một mình, bị ma đầu-lâu-đen doạ “ưm hừm” đấy!

-Ở đâu? – Ông Lành càng ngạc nhiên.

-Nó bảo có đầu- lâu-đen trên cây táo của ông! - Thằng Mùi vừa thở vừa nói , rồi quay mặt đi chỗ khác, đưa tay chỉ lên cây táo.

Ông Lành mới vỡ lẽ! Ông chửi yêu thằng Mùi, chửi yêu cả lũ bạn nó:

-Cha mẹ chúng bay nghe! chỉ bày trò dại mà doạ nhau thôi. Tổ kiến đen đấy cháu ạ! Ông nuôi tổ kiến trên ấy cho nó ăn sâu đi, để táo khỏi bị sâu ăn chứ.

Rồi ông Lành ngồi vậy, ôm hẳn thằng Mùi đứng vào giữa hai đùi ông:

-Cháu đến lớp nói với các bạn là không có ma nào hết nghe! Đây nè, để ông đi chọc tổ kiến cho cháu xem.

Rồi ông Lành cười thoả thuê, dắt tay thằng Mùi đến bên cây táo, lấy sào nứa đâm vào tổ kiến. Lập tức đàn kiến bò ra, bu đen cả đầu sào. Thằng Mùi vỗ tay reo lên, cười khanh khách. Rồi nó quay vội sang, nói với ông Lành:

-Bữa nay vì cháu ngủ quên, sợ đến trễ, cô giáo la, nên mới liều chạy tắt qua đường này đó ông ạ! Bây giờ cháu phải đến lớp kẻo trễ, nghe ông!

- Ờ! Mà cháu phải mang chỗ táo ông nhặt đây cho cả lớp ăn với chứ.

Trước đây, cô giáo Hà đến xin ông Lành cho mượn căn nhà mới để làm trường cho học sinh lớp Một. Suy đi tính lại , rồi ông không cho. Lắm lúc, ông cũng thấy có cái gì đó không đành. Hoá ra, như thế mình không nghĩ đến tình làng nước nữa sao? Nhưng mà, ái chà chà! Cái lũ trẻ ấy cũng nghịch quá lắm! Nếu để cho chúng nó học ở đấy, rồi đến tường nhà cũng lở lói hoặc bị bôi vẽ bẩn thỉu những gà mẹ, gà con, lợn nái , mèo hoa lên thôi, Và tất nhiên là cây táo quý hoá của ông cũng sẽ trụi thụi lụi cả quả lẫn cành mất.

Nhưng chỉ mấy ngày vắng bặt tiếng trẻ hò reo lượm táo, vắng bặt tiếng rậm rịch bước chân  của lũ chúng qua trước nhà ông để đến lớp học , ông Lành mới thấy hết thế nào là hạnh phúc của một người ông. Ông nhớ lũ trẻ hơn hớn kia quá. Và ông càng đâm ra nghĩ ngợi , nhớ lây sang thắng Sửu nhà ông , với niềm hy vọng một ngày gần đây ông sẽ có cháu nội . Rồi chúng cũng đi học lớp Một, cũng nhặt táo rụng trên vườn kia…

Thế là ông Lành quyết định đến lớp gặp cô giáo Hà. Và tất nhiên, ông sẽ được gặp tất cả lũ trẻ nữa. Thứ nhất, ông sẽ nói để cô giáo biết chuyện thằng Thìn bịa ra trên cây táo quý của ông có cái đầu lâu đen, làm cho lũ trẻ khiếp vía, sợ lây cả ông. Thứ hai, ông sẽ bảo cô giáo chuyển cho lũ nhỏ về ngôi nhà mới của ông mà học. Chả là ông đã nghe phong thanh, đâu cái chỗ lớp học hiện giờ chật chội quá, cô giáo Hà định dời lớp sáng một làng khác.

Ông Lành đến lớp học của lũ trẻ lớp Một.

Vừa thấy ông từ xa, lũ trẻ đã cầm mỗi đứa một vài quả táo trên tay, chạy ùa ra hò reo đón ông.

Riêng có thằng Thìn vội ngồi sụp xuống dưới chân bàn , mồm đang ngậm một quả táo, mỉm cười tinh nghịch. Nó đỏ dừ hai tai…

 

                                                Mùa táo chín 1973

4. Bọ lại lọ mọ tìm được tạp chí Học tập số 11-1974. . HỌC TẬP là “Tạp chí lý luận và chính trị của đảng Lao động Việt Nam “ thời bấy giờ, đã nhiều năm nay đổi tên là Tạp chí CỘNG SẢN -  Bài xã luận nhan đề: TĂNG CƯỜNG TÍNH ĐẢNG, ĐI SÂU VÀO ĐỜI SỐNG NHÂN DÂN, TẠO MỘT KHÍ THẾ MỚI TRONG VĂN NGHỆ TA trong đó có nhắc đến Cây táo ông Lành. Vì bài xã luận rất dài nên bọ chỉ đánh máy phần nói về Cây táo ông Lành thôi.

………….Một truyện ngắn về thiếu nhi đăng trên tuần báo Văn nghệ trong thời gian qua thuộc loại nấm độc nguy hiểm. Với lối viết kiểu “biểu tượng hai mặt”, truyện này gieo rắc hoài nghi trong quần chúng đối với sự lãnh đạo của Đảng ta, gieo rắc tư tưởng chống lại đường lối cách mạng, chống lại chế độ xã hội chủ nghĩa và nền chuyên chính vô sản của chúng ta. Miêu tả cuộc sống heo hút, tâm trạng u buồn của một ông già, người vợ chết vì bom, người con trai độc nhất “vô bộ đội đợt đầu tiên kể từ sau khi có lệnh hoà bình”, truyện này không những bộc lộ quan điểm sai lầm của chủ nghĩa nhân đạo tư sản trong vấn đề chiến tranh, mà còn có tác dụng như một lời kêu gọi phản đối chiến trânh cách mạng, có hại cho sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước của nhân dân ta. Trong điều kiện chuyên chính vô sản, cuộc đấu tranh giữa hai con đường ở miền Bắc tiếp tục diễn ra gay go , phức tạp, tác giả truyện ngắn này đưa ra hình ảnh cái đầu lâu khủng khiếp và nói về việc “ từ bỏ con đường này đi theo con đường khác” là có dụng ý gì? Phải chăng đây là sự phản ứng giai cấp trước một số biện pháp như kiểm tra hành chính , thu lại ruộng đất bị lấn chiếm , chống bọn ăn cắp tài sản xã hội chủ nghĩa và bọn làm ăn trái phép, bọn đầu cơ, móc ngoặc, vv…mà nhà nước dân chủ nhân dân đã áp dụng để bảo đảm thắng lợi của chủ nghĩa xã hội trong việc giải quyết vấn đề “ai thắng ai”  ở miền Bắc? Cùng với lối viết bóng gió, xuyên tạc “nhà mới mà đã dột vì chuột bọ”, tác giả đe doạ “bỏ” con đường mà tác giả cho là “con đường tắt” để đi con đường khác! Đó là một sự thách thức chế độ ta. Chuyện đã không chân thật, chủ đề lại lấp lửng, chi tiết lại đáng ngờ, gieo rắc những quan điểm, tư tưởng sai trái, đây rõ ràng là một truyện xấu và có hại. Vì tính chất độc hại của nó, truyện ngắn này đã bị đông đảo bạn đọc kịch liệt phản đối”…………

 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét