Đó là lời phê phán mở đầu bài viết "China 's Oil Rig Gambit: South China Sea Game - Changer?" (tạm dịch: “Nước cờ giàn khoan của Trung Quốc có giúp họ thắng bàn cờ biển Đông?”) của chuyên gia Carl Thayer, đăng ngày 11.5 trên tạp chí uy tín Diplomat. Báo Một Thế Giới lược dịch để giới thiệu với bạn đọc.
Hành động đưa giàn khoan Hải Dương-981 vào lô 143 thuộc vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam là một bước đi bất ngờ, đầy khiêu khích và phi pháp.Trung Quốc "há miệng mắc quai"
Sự kiện này cũng đánh dấu lần đầu tiên Trung Quốc đưa giàn khoan vào vùng EEZ của nước khác mà không được sự cho phép. Đây cũng là một bước đi gây bất ngờ, bởi quan hệ Việt - Trung dường như đang ấm dần lên sau chuyến thăm của Thủ tướng Lý Khắc Cường đến Hà Nội vào tháng 10 năm ngoái (2013).
Vào thời điểm đó, 2 nước đều tuyên bố rằng họ đã đạt được thỏa thuận giải quyết các vấn đề trên biển Đông trên cơ sở đối thoại. Bất ngờ còn ở chỗ, Việt Nam chưa từng có hành động gây hấn nào để buộc Bắc Kinh phải đáp trả bằng một hành động chưa có tiền lệ như vậy.
Đây cũng là một bước đi khiêu khích của Trung Quốc, vì họ đưa một lực lượng hùng hậu đến 80 tàu, trong đó có 7 tàu của hải quân. Khi các tàu cảnh sát biển của Việt Nam có mặt để bảo vệ chủ quyền chính đáng của quốc gia mình, Trung Quốc đáp trả bằng vòi rồng và cố ý lao vào các tàu Việt Nam . Đây là những hành động nguy hiểm, gây thương tích cho phía Việt Nam .
Hành động của Trung Quốc cũng là phi pháp, chiếu theo luật pháp quốc tế. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hoa Xuân Oánh bào chữa hành động của Trung Quốc, cho rằng giàn khoan trên nằm trong “lãnh hải Trung Quốc” và không liên quan gì đến Việt Nam.
Nói cách khác, Trung Quốc đã sử dụng luận điệu của Nhật Bản trong vấn đề tranh chấp đảo Senkaku, khi tuyên bố rằng không có tranh chấp gì với Việt Nam .
Nhưng làm như thế cũng có nghĩa là Trung Quốc đã “há miệng mắc quai”, bởi lẽ Trung Quốc cũng từng sử dụng tàu bán quân sự và máy bay để thách thức tuyên bố chủ quyền của Nhật Bản xung quanh đảo Senkaku. Thế nhưng trên biển Đông, Trung Quốc lại cư xử hệt như Nhật Bản khi từ chối thừa nhận có tranh chấp với Việt Nam .
Chẳng hề có một luận điệu chi tiết, hợp pháp để biện hộ cho các hành động của Trung Quốc. Bà Hoa Xuân Oánh chỉ đưa ra một tuyên bố chung chung. Luận điệu của bà, rằng giàn khoan “nằm trong lãnh hải Trung Quốc” là vô căn cứ, bởi chẳng có vùng đất nào thuộc Trung Quốc trong vòng bán kính 12 hải lý quanh lô 143.
Chính sự thiếu minh bạch của Trung Quốc đã khiến các học giả và các nhà phân tích chính trị khu vực ngờ vực cơ sở pháp lý của các tuyên bố chủ quyền từ Bắc Kinh. Năm 1996, nước này ra tuyên bố về đường cơ sở áp dụng đối với quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam .
Một số chuyên gia cho rằng những luận điểm gần đây của Trung Quốc là dựa trên chủ quyền bãi đá ở Tri Tôn với thềm lục địa và EEZ xung quanh nó. Thế nhưng đường cơ sở năm 1996 của Trung Quốc đã vi phạm điều 8 công ước Liên hiệp Quốc về luật Biển và không thể sử dụng để tuyên bố chủ quyền đối với lô 143.
Ngay cả khi cộng đồng quốc tế chấp nhận đường cơ sở năm 1996 của Trung Quốc, thì EEZ của Trung Quốc sẽ chồng lấn với EEZ của Việt Nam, dẫn tới trường hợp tranh chấp.
Theo luật pháp quốc tế, khi có tranh chấp, hai bên sẽ phải tìm kiếm một thỏa thuận tạm thời, kiềm chế sử dụng hoặc đe doạ sử dụng vũ lực và cam kết không thay đổi hiện trạng. Như vậy, hành động đưa giàn khoan và tàu bè của Trung Quốc rõ ràng đã vi phạm luật quốc tế.
3 giả thuyết cho các hành động của Trung Quốc
Các nhà phân tích đã đưa ra 3 giả thuyết về động cơ và mục tiêu thật sự của những hành động hung hăng vừa qua của Bắc Kinh.
Giả thuyết thứ nhất xem hành động đưa giàn khoan ra lô 143 chỉ đơn thuần là kết quả của một quyết định từ công ty dầu khí Hải Dương Trung Quốc, cho phép thăm dò thương mại một số lô dầu khí trên biển Đông, trong đó có lô 143.
Quyết định mời thầu 9 lô dầu khí trên biển Đông được xem là cách đáp trả của Trung Quốc đối với việc Việt Nam thông qua luật Biển năm 2012.
Thế nhưng giả thuyết này không đứng vững, bởi việc đưa lực lượng tàu hộ tống khổng lồ theo sau giàn khoan cho thấy đây không thể là một vụ thăm dò thông thường, mà là một đòn phủ đầu không cho Việt Nam bảo vệ EEZ của mình.
Giả thuyết thứ hai, hành động của Trung Quốc là nhằm phản ứng với các hoạt động thăm dò của công ty dầu khí Exxon Mobil với Việt Nam tại các lô dầu khí xung quanh. Giả thuyết này cũng không thuyết phục, bởi ExxonMobil đã thăm dò tại lô 119 từ năm 2011 và Trung Quốc đã không đưa ra phản ứng mạnh mẽ nào trong thời gian qua.
Giả thuyết thứ ba, được đưa ra lần đầu tiên ngày 6.5.2014, rằng hành động của Trung Quốc là đòn đáp trả có tính toán từ trước đối với chuyến công du châu Á của Tổng thống Mỹ Obama.
Theo giả thuyết này, Bắc Kinh đã nổi giận với việc ông Obama phê phán yêu sách đường 9 đoạn, cũng như thể hiện sự ủng hộ mạnh mẽ và công khai đối với các nước đang có tranh chấp biển đảo với Trung Quốc là Nhật Bản và Philippines.
Tóm lại, giả thuyết thứ ba cho rằng hành động của Trung Quốc cho thấy nước này đã lựa chọn đối đầu trực diện với chính sách "xoay trục sang châu Á" của ông Obama. Bắc Kinh cũng quyết tâm “vạch mặt” độ chênh giữa những phát ngôn của ông Obama và khả năng phản ứng thực sự của Mỹ trước những tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc.
Giả thuyết thứ ba là giàu sức thuyết phục nhất, nhưng nó lại đặt ra câu hỏi rằng tại sao Việt Nam lại trở thành tâm điểm của cuộc khủng hoảng này. Và Trung Quốc có thể đã tự hại mình khi chọn thời điểm hành động ngay trước kỳ họp thượng đỉnh của ASEAN.
Hành động của Trung Quốc đã đảm bảo rằng biển Đông sẽ là một trong những vấn đề nóng nhất của hội nghị ASEAN. Kết quả là các bộ trưởng ngoại giao ASEAN đã ra tuyên bố chung “bày tỏ quan ngại sâu sắc về các vụ việc đang diễn ra trên biển Đông, đã làm gia tăng tình hình căng thẳng tại khu vực”. Sự ra đời của một tuyên bố như vậy có ý nghĩa quan trọng, thể hiện sự ủng hộ đối với Việt Nam và đặt nền tảng cho những tuyên bố tương tự của lãnh đạo các quốc gia ASEAN.
Các ngoại trưởng ASEAN đã tế nhị không đề cập đến Trung Quốc để thể hiện sự tôn trọng với Bắc Kinh. Nhưng bản tuyên bố chung cho thấy các nước ASEAN đã bắt đầu thay đổi quan điểm trước đây, rằng tranh chấp xung quanh quần đảo Hoàng Sa chỉ là vấn đề giữa 2 nước Trung Quốc và Việt Nam.
Hành động của Trung Quốc cũng sẽ khiến 5 nước Việt Nam , Malaysia , Singapore , Philippines và Indonesia cảnh giác hơn. Các nước này có thể sẽ tăng cường khả năng quân sự và tìm kiếm sự giúp đỡ từ Mỹ và các cường quốc hàng hải khác như Nhật Bản, Úc và Ấn Độ.
Carl Thayer (Xuân Tùng lược dịch)
=========
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét