Tôi và tất cả những ai có tên trong cuốn sách này đều do tôi tạo ra, kể cả bố mẹ tôi.
7. Không phải ba tôi tin ông có thể làm được cái điếu cày trong vòng mười lăm phút, cũng không phải ông tin nếu làm được điếu cày trong vòng mười lăm phút thì ông sẽ được tha bổng. Tha sao được mà tha. Tính mạng của ông gắn bó không rời với tính mạng Đội Trưởng. Ông được sống tất Đội Trưởng phải chết, không chết cũng tàn đời.
Lúc này đây ba tôi đã mất hết quần chúng, có nói gì cũng chẳng ai tin. Nhưng một khi ông đã được tha bổng tất trước sau ông cũng có quần chúng trong tay. Thứ quần chúng chỉ biết hỉ nộ ái ố theo chỉ thị lúc nào cũng có sẵn, ở đâu cũng có sẵn. Bất kì ai ở trường hợp như ba tôi cũng thừa sức đưa Đội Trưởng vào vòng lao lý, đang khi tội hủ hóa là một tội tày đình.
Chuyện này không ai dạy Đội Trưởng cũng biết thừa. Giao kèo của Đội Trưởng làm ba tôi chợt nảy ra một ý tuyệt vời: Trốn! Chỉ có cách bỏ chạy mới hòng thoát thân. Chạy đi đâu, chạy bằng cách nào? không biết. Nhưng phải bỏ chạy, biệt tích trong vòng một năm, hoặc hai năm hoặc lâu lâu hơn nữa, nhất định có ngày Đội Trưởng biến mất và ông sẽ được trở về với vợ con, với quê hương bản quán.
Chợt hiện ra trong ông con đường tìm đến đỉnh Chóp Chài. Mười lăm năm trước ông đã lần mò đến đấy để gặp gỡ và đi theo những người cùng chí hướng. Nơi ấy bây giờ không còn ai, tất cả đã xuống núi, đã nhận được những vị trí xứng đáng, bù lại những tháng năm gian nan cùng cực, mạng sống như trứng treo đầu đẳng.
Nói những vị trí xứng đáng là nói cho oách, thực ra là giá đền bù không đắt cũng chả rẻ, phú quí không có nhưng vinh dự thì đầy ắp. Đấy là thứ bổng lộc nhất thời, không bán được một xu, ai ai cũng làm ra vẻ không cần nhưng một khi có nó chẳng ai muốn buông, lắm khi để có nó người ta sẵn sàng đánh đổi bằng cái chết .
Sau tiếng dạ reo vang giữa mưa to gió lớn nghe như một tiếng khóc òa, bốn sợi dây thừng được tháo tung, ba tôi đứng vụt dậy. Không kịp nói lời chia tay với vợ con, ông chạy vụt đi, cứ hướng bụi tre ngà cuối xóm Long Hòa mà lao tới. Mất chín phút ba tôi mới tới được bụi tre ngà, sáu phút vượt qua bãi phi lao cằn, chạy sấp mặt mất mười một phút mới tới làng Nổ.
Ba tôi biết đây là thời điểm Đội Trưởng bắt đầu khả nghi, cho người đi tìm. Ông biết đích xác thời gian kể từ khi Đội Trưởng khả nghi, sai người đi tìm, người đi tìm trở về báo không tìm thấy, lại sai người đi tìm một lần nữa, lại trở về báo không tìm thấý, Đội Trưởng quyết định huy động một ngàn quần chúng càn quét khắp Thị Trấn.
Khi Đội Trưởng biết chắc chắn ba tôi đã bỏ trốn, huy động khẩn cấp trung đội dân quân đuổi theo ba tôi, cả thảy mất ít nhất một giờ chẵn. Khi đó ba tôi đã đến làng Phù, nơi có một người đàn bà sẵn sàng che chở ông bởi vì ông luôn che chở bà trong suốt thời gian ở chiến khu Chóp Chài và làm cho bà sướng phát điên trong hốc đá lạnh buốt những đêm đói rét triền miên.
Bà đã chết chém cách đó ba ngày nhưng ba tôi không hề biết. Đội trưởng làng Phù thích xử tử bọn phản động bằng dao cùn chém cổ. Cứ một nhát chém là một lần hô đả đảo và muôn năm, hô đến rát họng cổ vẫn chưa lìa. Cái cổ ba ngấn tuyệt vời kia chẳng ngờ lại dẻo và dai đến kì lạ.
Phải mất non một giờ mới có thể làm đứt nó, thậm chí khi đầu bà đã gục hẳn xuống, phế quản đã phơi ra một cái lỗ đen ngòm, máu tươi phun ngược lên trời, xối khắp cơ thể bà, chỉ còn một tí da dính phía dưới ức, người ta chém thêm vài chục nhát nữa cái đầu vẫn bám chặt không chịu rơi.
Đội trưởng làng Phù phải nhảy ra. Ông cầm lấy hai tai bà vừa vặn vừa giật đến toát mồ hôi mới nhổ được cái đầu ra khỏi cổ. Cái cổ cao ba ngấn chỉ còn một dúm thịt đỏ lòm, xám ngoét. Đội trưởng làng Phù ném cái đầu xuống đống rơm bò ăn, nói bà con thấy chưa, vì răng cách mạng gọi bọn phản động là bọn đầu bò đầu bướu.
Cái đầu bò đầu bướu mới hôm qua còn dướn cao lên giữa đám đông hô muôn năm và đả đảo, hôm nay đã nguội lạnh dúm dó trong đống rơm bò ăn, trong chốc lát bị người ta cào như cào cứt bò khô xuống cái hố nông choèn đào sẵn dành cho bọn phản động.
Ba tôi không hề hay biết, ông đang chạy về làng Phù trong khát vọng sống mỗi lúc một rực lên. Ông chạy thục mạc trên trảng cát có hằng hà sa số những bụi cây lúp xúp, vượt qua làng Nổ khá dễ dàng không một ai phát hiện, hay ít ra ông cũng có cảm tưởng không bị ai phát hiện. Cách rặng trâm bầu làng Đông không đầy hai cây số, ba tôi dừng lại .
Ông đứng trên một đụn cát cao, nhìn về phía sau. Không có ai đuổi theo. Với thân hình đầm đìa mồ hôi nhem nhuốc đất cát, ba tôi nở một nụ cười mãn nguyện. Kế hoạch trốn chạy của ông sắp được hoàn thành, cõi sống đã mở ra trước mặt. Từ đó ông có thể thong dong cứ men theo rặng trâm bầu râm rịt sum sê này mà tiến bước, chỉ trong vòng hai mươi phút sẽ đến làng Phù, nơi mà ba tôi tin là cõi sống.
Ông không hề biết đó là cách tính toán cực kì hoang đường của kẻ bị đẩy đến thế cùng vẫn không chịu vứt bỏ bất kì niềm tin nào, kể cả niềm tin vào những kẻ đã và đang gây cho ông cái chết.
Ba tôi lọt vào rặng trâm bầu cũng dễ dàng như khi vượt qua làng Nổ, không có ai phát hiện, hay ít ra cũng có cảm tưởng không bị ai phát hiện. Ông đâu biết người ta đã vượt lên trước bằng một con đường tắt. Hai mươi ba người đang phủ phục phía sau những gốc cây trâm bầu, cách ông chừng không đầy vài chục bước chân.
Ông ngồi dựa vào một gốc cây trâm bầu vừa để nghỉ ngơi chút đỉnh vừa để tính toán xem mình phải nói như thế nào với người đàn bà đã bị ông lẳng lặng bỏ rơi. Công việc quá bận rộn là một lý do. Những ngày đầu tiếp quản Thị Trấn với tư cách một ông chủ tịch được chỉ định, quả thật ông không còn tâm trí nào để nghĩ đến bà.
Ông tắc lưỡi cho qua, phớt lờ những lời bà nhắn gửi vu vơ với ai đó, đôi khi cả những lá thư bà viết đầy lỗi chính tả, cả những lần bà bất ngờ đứng chắn ông ngang đường, ném cái nhìn hờn dỗi rồi quay ngoắt đi sấp mặt, đôi bờ vai rung lên sau mỗi lần nấc nghẹn.
Dụ dỗ một người đàn bà sẵn lòng yêu mình thật quá dễ, chỉ trong vài giây ba tôi đã nghĩ ra cách phải làm thế nào để bà phải mủi lòng, sẵn sàng rơi vào vòng tay của ông, úp mặt vào ngực ông khóc thút thít, mặc cho ông kéo tuột áo xống, không cần phải nói một lời nào, và sau đó sẵn lòng đào hầm bí mật che chở cho ông, hoặc cùng ông trốn lên đỉnh Chóp Chài.
Ba tôi mỉm cười trước viễn cảnh gần kề. Ông hít một hơi thật sâu, chống gối đứng lên, cố gắng chống lại cơn buồn ngủ bỗng dưng ập đến, kết quả ba ngày ba đêm không một lần chợp mắt trong đình thờ họ Nguyễn, nơi giam giữ ông đợi ngày hành quyết. Ông đã đứng lên được rồi nhưng lại rơi phịch xuống, cứ thế lịm đi trong những chập chờn đen đỏ. Những chập chờn đen đỏ phút chốc trùm lên ông, đẩy ông lún sâu vào không cách gì cưỡng lại.
Ông trôi nổi trong chập chờn đen đỏ khi rực lên phấp phới khi lạnh ngắt hun hút, trong âm u những âm thanh khi dấy lên đồng loạt rào rào khi nỉ non như những giọt nước rơi, trong những làn gío nhẹ khi thoang thoảng hương lá sả khi ngậy mùi người, thứ mùi người của đám đông đầy mồ hôi và bùn đất.
Ba tôi chìm xuống trong cảm giác nhẹ tênh, một trạng thái rơi tự do vừa nhẹ nhõm vừa bất an. Ở đâu đó bốn xung quanh thi thoảng lại vang lên những tiếng thở hắt ra trong ánh sáng lờ mờ màu lá mạ lẫn với màu mực Cửu Long. Những tiếng thở hắt ra nhẹ và êm, như một tiếng reo khẽ khàng của ai đó đang nơm nớp lo âu bỗng nhận được một tin vui.
Ông tụt dần, tụt dần giữa những tiếng thở hắt ra như thế ngày càng nhiều hơn, dày đặc và dồn dập đến nỗi không còn nhận ra đó là những tiếng thở hắt ra, chúng cộng hưởng thành tiếng xì hơi của lốp xe, tiếng xì hơi của nhiều lốp xe. Khi ba tôi lơ lửng giữa khoảng không hình trụ sâu hun hút thì khắp nơi vang lên tiếng xì hơi dữ dội của ngàn vạn lốp xe.
Ánh sáng vẫn lờ mờ, đùng đục nhưng màu mực Cửu Long đã biến mất chỉ còn màu lá mạ mỗi lúc một đặc sánh. Không rõ đây là nơi nào, cũng không cần biết đây là nơi nào, ba tôi tụt dần trọng trạng thái rơi tự do vừa nhẹ nhõm vừa bất an.
Khoảng năm trăm mét đầu tiên ba tôi không hề thấy gì, đúng hơn ông chỉ thấy vô số những mảnh vỡ bay dập dềnh quanh ông. những mảnh vỡ của cái gì không biết, cũng không cần biết chúng là mảnh vỡ của cái gì, ba tôi khoan khoái dập dềnh cùng với chúng tụt dần xuống đáy một không gian hình trụ có bán kính chừng vài km.
Đến chừng km đầu tiên, ba tôi chợt nhận ra không chỉ một mình ông trôi nổi giữa khoảng không hình trụ sâu hun hút, có rất nhiều người, không phải, rất nhiều mặt người, những cái mặt mỏng dính như những mặt nạ giấy bồi, thứ hàng mã vẫn bày bán ở cuối chợ Thị Trấn. Những mặt nạ sống đang dập dềnh quanh ông cùng với vô vàn những mảnh vỡ.
Gọi là mặt nạ sống bởi vì chúng không phải là những mặt nạ, kì lạ thay chúng chính là mặt người đang sống, tựa hồ người ta vừa tách phần mặt ra khỏi đầu, giữ nguyên trạng thái sống của chúng, thả cho bay dập dềnh trong khoảng không hình trụ kì quái lần đầu ba tôi mới biết.
Phía sau mỗi mặt nạ có đánh số, ghi tên người. Ba tôi biết chắc như vậy vì đột nhiên một mặt nạ bay chờm lên trước mặt ông, cảm tưởng nó sẽ úp sát mặt ông và mắc cứng ở đấy, nhưng không, nó chỉ dừng lại trong chốc lát rồi lật nghiêng, chao đi, lẫn vào muôn ngàn vạn mặt nạ khác.
Ba tôi kịp thấy phía sau mặt nạ có đánh số 107 và ghi tên: Mohammed, cái tên Ảrập nghe rất quen nhưng ông không nhớ đó là ai. Lại cái mặt khác bay chờm lên trước mặt ông, nó được đánh số 20799, có tên Frăngxoa Rabơle. Tuyệt vời! Đấy là nhà văn Pháp ba tôi cực kì hâm mộ, tuy ông mới đọc được một cuốn trong bộ truyện Gácgăng chuya và Păngtagruyen, với vốn Pháp văn mới sạch nước cản, ông cũng nhận ra được giọng điệu trào tiếu đặc sắc của ông này.
Hóa ra tất cả những cái mặt đang dập dềnh quanh ông đều là mặt của ai đó đã từng có ở trên đời, ở khắp hành tinh bỗng tụ về dập dềnh trong khoảng không hình trụ vĩ đại này. Mặt số 1175 là mặt của Trần Tử Ngang. Ôi cám cảnh gặp gỡ thế này sao Trần Bá Ngọc tiên sinh!
Mặt số 669001 là mặt của thằng chó chết Franco, thủ lĩnh đảng “súng dài”, tên độc tài sống dai nhất trong lịch sử những tên độc tài. Mặt số 7008 là mặt của người đẹp Đát Kỷ, cái mặt không biết cười nhưng dâm đãng và ngu xuẩn hết chỗ nói. Mặt số 559001 là mặt của Ađam Smith, chịu, chẳng biết ông này là ông nào.
Bỗng rào rào, hàng trăm cái mặt tăng tốc độ bay vun vút, tranh nhau đâm bổ xuống phía dưới đáy. Lẫn trong tiếng rào rào, vang lên tiếng kêu của ai đó, nói Trọng Ni! Trọng Ni! Thuyết chính danh của ngài ra sao rồi. Tiếng kêu của ai đó vang lên hai ba lần vẫn không có tiếng đáp lại. Mãi sau mới nghe tiếng đáp trễ nải ngay sát bên trái tai ba tôi, nói ta có biết đâu. Ngươi hỏi Mạnh Kha, Tuân Huống xem sao!
Hóa ra cái mặt Khổng Tử ở sát ngay tai trái ba tôi không đầy một cen-ti-met. Ba tôi vội vàng quay mặt sang trái, cơ hội ngàn vàng để ông tỏ mặt con người suốt hai ngàn rưởi năm nay chẳng ai biết nó tròn hay méo. Nhưng ba tôi không quay sang được, dù đã cố gắng hết sức ông vẫn không sao lật được mặt của mình nghiêng sang trái.
Lúc này ba tôi mới phát hiện ra chính mình cũng chỉ còn trơ lại mỗi cái mặt, một cái mặt cũng đã bóc tách khỏi phần đầu, nằm lật ngửa trôi dập dềnh giữa muôn vàn cái mặt khác. Ba tôi không biết mặt mình được đánh số bao nhiêu và người ta có ghi đúng tên Nguyễn Quang Đạng không, hay vẫn như dân Thị Trấn cứ một mực gọi ông là thầy Đặng.
Thật ra lúc này ba tôi không quan tâm lắm điều đó, ông chỉ muốn lật nghiêng xem cho tường mặt Khổng Tử, bậc đại danh ông suốt đời ngưỡng mộ, lắm lúc ông còn chẳng tin người này lại có thực trên đời. Cơ hội ngàn vàng đang ở bên tai trái ba tôi không đầy một cen-ti-met, thế mà ông không cách nào lật nghiêng được cái mặt của mình. Ba tôi hít một hơi thật sâu, gồng hết sức, cố xoay nghiêng.Bật! Được rồi! A ha ha ... Ba tôi cười vang, cố mở to mắt ra nhìn.
Quái lạ!
Trước mắt ba tôi là một cái mặt đàn bà đang khóc. Định thần lại một chút ba tôi nhận ra rành rành đấy hoàn toàn là mặt của mạ tôi. Sau mặt mạ tôi là mặt của các con ông, sáu cái mặt trẻ con cả thảy. Chẳng hiểu ra làm sao cả. Ở đâu ra những cái mặt thân quen thế này?
Ba tôi lật ngửa mặt mình, lần này ông thực hiện quá dễ dàng và ngay lập tức ông còn nhận ra rõ ràng ông còn nguyên xi cả thân thể và mặt ông không hề được bóc tách ra khỏi đầu, không hề trôi dập dềnh trong khoảng không hình trụ như ông tưởng. Ông đang nằm trong nhà mình, xung quanh là vợ con ông, chỉ có vợ con ông, không ai khác. Tất cả đang nước mắt dầm dề.
À không, không phải là nhà ông, chính là cái chuồng bò Đội Trưởng đã thí cho sau khi lôi cổ ông đi cùng với biên bản tịch thu tài sản. Thế này là thế nào? Ba tôi nhớ mang máng hình như ông đang chạy trong rặng trâm bầu sau lưng làng Đông, hướng về làng Phù, trong cuộc tự phóng sinh gian khổ và nguy hiểm.
Đúng rồi! Ba tôi nhớ ra rồi, nhớ hết cả, ông còn biết đích xác mình vừa trải qua một giấc mơ, chỉ là một giấc mơ phù phiếm mà thôi. Bây giờ ba tôi nhận ra xung quanh ông không chỉ có gia đình tôi, cả một đám đông chừng vài chục người, đa số là bà con hàng xóm đang đứng chật cứng trong cái chuồng bò mười bốn mét vuông. Họ nhìn ba tôi, những cái nhìn hồ hởi phấn khởi và đang chờ đợi ông thốt lên một lời, lời gì cũng được, miễn là được thốt lên từ cửa miệng ông.
Ba tôi lần lượt nhìn hết lượt những cái mặt hồn hậu kia, vẫn không hiểu ra làm sao cả. Có chuyện gì nghiêm trọng đến mức hết thảy hàng xóm lại vây đến quanh ông? Có trời mà biết được. Chợt ông chồm dậy, chực vùng té chạy. Nhưng ngay tức khắc ông biết làm thế chỉ tổ vô ích khi cái mặt Đội Trưởng đang rẽ những cái mặt hàng xóm tiến vào, chỉ cách mặt ông không đầy một mét. Phía sau Đội Trưởng, cái mặt chị Hiên đang lấp ló .
Đội Trưởng nhìn ba tôi ngượng ngập rụt rè, nói anh Đạng. Mặt ba tôi tái mét. Ông ngước lên trân trố nhìn Đội Trưởng, nói tôi còn thiếu nợ Đội Trưởng cái điếu cày. Để tôi làm...
Mọi người cười ồ. Tiếng cười rộ lên rồi im bặt. Tất cả lại im lặng nhìn ông. Mặt Đội Trưởng đờ đẫn, dài thuỗn ra. Mặt chị Hiên tái xanh tái xám. Họ sợ, hình như thế. Ông Kiểm Hiền, công thần số một Thị Trấn, chống nạng rẽ đám đông đi vào. Ông dơ cái nạng chỉ vào mặt ba tôi, nói sửa sai rồi, đụ mạ.
Dứt lời ông chống gậy rẽ đám đông đi ra, không quên ném cái nhìn khinh bỉ vào mặt Đội Trưởng và cố tình thúc cái gậy vào háng chị Hiên. Kiểm Hiền tiên sinh, gã say thời đại mới, đã hoàn thành nhiệm vụ mỗi ngày có một câu tỉnh táo, tự ông ra lệnh cho ông, trước khi chìm vào nhưng cơn say triền miên.
Ba tôi vẫn không hiểu, ông mở to mắt ngơ ngác nhìn mọi người, nói sửa sai là cái chi. Mọi người lại cười ồ. Mạ tôi chồm đến chụp lấy tay ba tôi nấc lên, nói hết tù hết tội rồi anh ơi, không ai giết anh nữa mô.
Mạ tôi òa khóc, nói ôi anh ơi anh ơi trời có mắt. Tiếng khóc vỡ òa vào im lặng nghe rờn rợn. Nghe rờn rợn tiếng thút thít của chị Liên, chị Nghĩa tôi. Anh Thắng hai tuổi cũng khóc theo, anh đã nẩy sinh thứ tình cảm a dua ngay từ thủa thiếu thời. Anh Huy không khóc. Anh đứng riêng ra một góc, dựa cột nhà ngửa mặt lên trời, đôi mắt mở to đẫm nước. Anh Tường đứng nhăn răng cười không ra tiếng, nói ba ơi ba, có chết nữa không ba. Lúc này ba tôi mới tin mình hảy còn sống, chính xác là ông đã thoát chết.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét