* NGUYỄN HIẾU
IFN - "Ở VN người ta coi công việc thẩm định luận văn để phong hàm vị chỉ như công việc làm thêm, kiếm thêm thu nhập chứ chưa thực thụ coi đây là một trách nhiệm, hoặc làm với tư cách người có tâm huyết với nghề…"
Trao đổi với PV Infonet, GS Trần Ngọc Vương – Giảng viên khoa Văn học – Trường Đại học xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội bày tỏ: “Ở phương Tây như Anh, Pháp, Mỹ… người ta còn xét luận văn để phong tặng hàm vị GS, PGS đến cả ý tưởng. Trong luận văn nếu vị nào có 3 ý tưởng mà trong đó có 2 ý tưởng hay là người ta chú ý rồi…
Nếu anh lấy ý tưởng của người kia rồi tự xây dựng, thêm khung xương đắp thêm da thịt trong luận văn để thành ý tưởng của anh nhưng thực ra là ý tưởng của người khác, người ta vẫn coi anh đi “đạo” ý tưởng, luận văn sẽ không được xem xét đến...”Theo GS Vương, ở VN coi công việc thẩm định luận văn tiến sỹ như công việc làm thêm, kiếm thêm thu nhập hoặc những người có tâm huyết thì làm, thì chấm luận văn, chứ chưa thực sự coi đây là một trách nhiệm…
Thế nên nhiều người chỉ đọc, thẩm định lướt qua, thậm chí không đọc. Vì vậy, có những công trình, những ý tưởng trong luận văn luẩn khuất đâu đây mà bị “đạo” vào luận văn khiến người chấm hoặc Hội đồng thẩm định không thể biết được, nên vẫn có vị lọt qua và được phong GS.PGS.
Còn Hội đồng thẩm định GS, PGS ở các nước phương tây, GS Vương cho biết, họ chỉ có vài người. Người ta cũng không dùng lá phiếu số đông áp đảo thiểu số. Nhưng việc phong GS có chuẩn cứng và chuẩn mềm. Chuẩn cứng là chuyên môn của anh. Chuẩn mềm là uy tín nghề nghiệp, là tầm ảnh hưởng của anh đối với cộng đồng, cơ sở đào tạo.
Khi được phong GS, người ta có một tài khoản riêng, có trợ giảng và một PGS kèm theo, việc quan hệ giữa 3 người rất bình đẳng. Việc xét phong hàm GS ở các nước phương Tây chỉ là một nhóm người, thậm chí cả người có hàm Tiến sỹ cũng tham gia việc xét phong hàm vị.
Bày tỏ quan điểm về việc phong chức danh PGS, GS tại Việt Nam, GS Hoàng Xuân Sính cho rằng còn có nhiều điều phải xem xét lại để phù hợp với chuẩn mực quốc tế: "Ở hầu hết các đại học phương Tây và một số nước châu Á, GS là một chức danh được bổ nhiệm và có thời hạn nhất định, thông thường 3-5 năm. Sau thời hạn đó, ứng viên phải làm thủ tục được bổ nhiệm lại.
Và khi người ta không đạt được chức danh PGS, GS, khi thẩm định lại nhiều người không có quyền dùng danh xưng PGS, GS trước tên mình. Nhưng ở Việt Nam , chức danh PGS, GS được xem như một phẩm hàm và phẩm hàm đó khi được phong một lần có quyền sử dụng danh xưng này suốt đời".
Trên thế giới và cả ở nước ta, chức danh giáo sư đã trải qua nhiều thay đổi. Hiện nay, ở Việt Nam đã có thay đổi về tiêu chuẩn và quy trình phong hàm vị, có cải tiến theo chiều hướng tốt hơn nhưng theo GS Sính, cần phải thay đổi nữa.
“Như việc tính điểm một cách máy móc để làm chuẩn cho việc phong PGS, GS theo tôi chưa thực sự hợp lý và hàm chứa nhiều cơ hội cho tiêu cực. Bên cạnh đó, chúng ta chưa phân biệt được PGS, GS; chức danh PGS, GS của các trường đại học và PGS, GS kiêm nhiệm, dẫn đến tình trạng chỉ khoảng 1/4 PGS, GS thật sự giảng dạy và nghiên cứu khoa học”. – GS Sính chia sẻ.
Theo GS Sính, chúng ta cần có sự tách riêng những chức danh PGS, GS mới kiêm nhiệm và những PGS, GS thực thụ, lâu năm thỉnh giảng tại các trường đại học.
* * *
GS Trần Ngọc Vương đã nói: "Vẫn còn sự chiếm đoạt chức danh GS, PGS…Hiện nay, có câu chuyện phong hàm vị như là một sự khen thưởng… Lẽ ra phải hiểu rằng việc phong hàm vị là chức danh công tác, nhằm tới chức năng, trách nhiệm là chính chứ không phải nhằm đãi ngộ, cũng không phải là sự ghi nhận thành tích".
- GS đánh giá thế nào về chất lượng PGS, GS ở nước ta hiện nay?
- Từ năm 1980, thời điểm bắt đầu “phong” giáo sư trở lại sau mấy chục năm không thực hiện, cho tới nay, ta có hơn 1.500 GS, khoảng hơn 8300 PGS, nhưng số lượng GS, PGS đã mất, hoặc không giảng dạy, không còn làm nghề thì chúng ta chưa thống kê được.
Rất nhiều người được phong nhưng điều đáng buồn là, theo con số của chính Bộ Giáo dục và Đào tạo, chỉ hơn 30% người có học vị từ tiến sĩ trở lên làm việc ở các trường đại học. Còn khoảng 70% GS, PGS không làm công tác giảng dạy.
Theo tôi con số này rất phí, nên coi đó là sự “chiếm đoạt” danh hiệu. Tất nhiên, việc phong hàm vị có liên quan đến nhiều thứ như tiếng tăm, quyền lợi, lương bổng, thu nhập…
Ở ta có một câu chuyện khác nữa là coi phong hàm vị như là một sự ghi công, sự khen thưởng… Đúng ra, phải hiểu rằng việc phong hàm vị là chức danh công tác, mà trách nhiệm là chính chứ không phải nhắm tới sự đãi ngộ, cũng không phải là sự ghi nhận thành tích. Vì vậy, việc phong hàm vị GS, PGS mà không làm công tác giảng dạy thì theo tôi sẽ mất ý nghĩa, mà chỉ là một sự an ủi, một cách vinh danh nào đó thôi!
Theo tôi, chất lượng GS, PGS hiện nay ở nước ta chưa được như ý. Như giáo sư Hoàng Tụy có lần nhận xét ước lượng thì ở nước ta có tới 70% số GS, PGS không đạt chuẩn, tôi không dám khẳng định con số này. Nhưng tôi nghĩ rằng, một GS có uy tín lớn như Hoàng Tụy, hiểu biết giới Đại học quốc tế, nói ra như vậy thì chúng ta phải suy nghĩ.
Trong khoa học tự nhiên tôi không biết, nhưng trong khoa học xã hội thì chất lượng PGS, GS hiện nay kém hơn các thế hệ trước. Vì GS ngày xưa có ít, không “đại trà” như hiện nay, các cụ tự định hướng, tự “trở thành”, nhiều chỗ phải tự mày mò học hỏi, về ngoại ngữ tuyệt đại đa số các cụ ít nhất là thành thạo, dùng được từ một nhiều ngôn ngữ… nên theo tôi chất lượng GS, PGS ngày xưa vẫn tốt hơn.
Mà trước đây ai được phong thì là GS, hầu như trước năm 1980 chưa có PGS. Các GS thế hệ “khai sơn phá thạch” có nhiệm vụ rất rõ ràng, được ủy thác của cộng đồng, của nhà nước, rồi từ đó tính tự nhiệm rất cao.
- Theo GS, việc phong hàm vị PGS, GS hiện nay đã chặt chẽ chưa? Có hiện tượng “chạy” học hàm học vị không?
- Hiện nay, bộ tiêu chí chuẩn để phong hàm GS, PGS theo tôi, chủ yếu lấy theo tiêu chí của Khoa học tự nhiên. Còn Khoa học xã hội tôi nghĩ còn nhiều điều chưa chuẩn lắm! Cách tính điểm công trình chưa ổn. Việc thẩm định phong hàm vị PGS, GS hiện nay vẫn còn nhiều trường hợp “nể nhau” thì giúp nhau để được phong tặng. Có người viết chuyên luận hoặc bài báo nhạt nhẽo, rất ít thông tin, nhưng vì áp lực này, áp lực kia, người tham gia thẩm định trong các Hội đồng vẫn ủng hộ, vẫn tính điểm “kha khá” nếu ứng viên “chỉ có ngần ấy”.
Hiện tượng chạy trong khâu thẩm định phong hàm GS, PGS tôi nghĩ chắc là có, tuy tôi chưa bắt gặp trường hợp nào để có thể khẳng định đích danh. Nhưng theo tôi nếu nhà giáo, nhà nghiên cứu lên cấp hàm GS, PGS mà “chạy” khâu thẩm định tôi cho rằng đó là sự nhục nhã; anh phải để cho người ta đánh giá, nhưng đây anh lại chạy, mà chạy bằng tiền, bằng “quà” để có được hàm vị GS, PGS thì đó là sự đáng xấu hổ…
Số người không làm “động tác” chạy thẩm định theo tôi là ít. Và số người xòe tay ra nhận tiền dưới hình thức cảm ơn tôi chắc rằng cũng có. Đó là hành vi đáng lên án và thật xấu hổ. Chúng ta hiểu chạy chức danh thì cũng giống như là chạy chức, chạy quyền, không ai “rao to” lên được…
- Nếu xảy ra tình trạng “chạy” hàm vị GS, PGS điều này ảnh hưởng như thế nào đến chất lượng các GS, PGS hiện nay?
- Tất nhiên sẽ ảnh hưởng! Bản thân người “chạy” biết rằng mình đang chấp chới, thậm chí non hẳn, nếu chạy như thế thì tự mình phỉ báng mình. Nếu anh tự tin và có lòng tự trọng, tự khẳng định mình “đạt và vượt chuẩn” để nhận được hàm vị thì anh không cần chạy.
Được cộng đồng, xã hội đánh giá anh là người đàng hoàng… Nhưng những người đàng hoàng, không nhờ vả “chạy chọt” hàm vị theo tôi không phải là tuyệt đại đa số đâu… Thậm chí, cũng có trường hợp xứng đáng đấy, nhưng “theo phong trào”, có người “cả lo”, thấy người ta “đi chợ” mà mình lại không, e “nguy cơ cao”, nên dù thực chất đủ năng lực, đủ điều kiện được phong hàm vị nhưng mà vẫn “chạy”…
Xin cảm ơn GS!
N.H (Infonet)
--------------
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét