* BÙI VĂN BỒNG
(tiếp theo - sau một thời gian gián cách - Kỳ 7)
…Các học giả này cho rằng Công ước Pháp - Thanh năm 1887 đã quy định “từ Quảng Đông, những điểm tranh chấp nằm từ phía Đông đến phía Tây Bắc của Móng Cái, ngoài biên giới đã được hai phái bộ (Pháp và nhà Thanh) xác định... các đảo Go-tho và các đảo khác nằm phía tây của đường kinh tuyến thuộc về An Nam”.
Từ quy định đó, phía Trung Quốc lại dựa dẫm, suy diễn thực dụng nêu lên lập luận vô căn cứ, tréo ngoe rằng họ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm ở phía đông kinh tuyến Paris 105°43’ nên hai quần đảo này phải thuộc về Trung Quốc. Đây đơn thuần là một suy diễn lệch lạc hay là một sự cố ý coi thường lịch sử và bóp méo sự thật ?Để có cơ sở hiểu rõ hơn đâu là sự thật của vấn đề, chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu tên và nội dung của Công ước trên như thế nào? Mục tiêu của Công ước này là gì? Công ước đó được ký kết trong bối cảnh như thế nào? Và Công ước này có đề cập gì đến các đảo mà Trung Quốc gọi là có tranh chấp ở Biển Đông hay không?
Thực hiện điều 3 Hiệp ước Thiên Tân năm 1885, các đại diện được Tổng thống nước Cộng hoà Pháp và Hoàng đế Trung Quốc cử ra đã hoàn thành nhiệm vụ khảo sát biên giới giữa Trung Quốc và Bắc Kỳ và đã quyết định ghi trong Công ước Pháp - Thanh năm 1887 những điều khoản sau đây nhằm giải quyết dứt khoát việc hoạch định biên giới nói trên:
1. Những biên bản và những bản đồ đính kèm các biên bản đó đã được đại diện Pháp và Trung Quốc lập ra và ký tên, nay vẫn được chuẩn y;
2. Những điểm mà hai Uỷ ban chưa thể thống nhất với nhau được và những điều chỉnh nói trong đoạn 2, điều 3 của Hiệp ước ngày 9 tháng 6 năm 1885 được giải quyết như sau:
“Ở Quảng Đông, hai bên thoả thuận rằng các điểm tranh chấp nằm ở phía Đông và Đông - Bắc Móng Cái, ở bên kia đường biên giới như Uỷ ban hoạch định biên giới đã vạch, được phân cho Trung Quốc. Những đảo ở phía Đông dọc đường kinh tuyến Paris 105043’ đi qua kinh độ Đông của đảo Tch’a-kou hay Ouen Chou (Trà Cổ) và làm thành đường biên giới, cũng phân cho Trung Quốc. Quần đảo Cô Tô và các đảo khác nằm ở phía Tây kinh tuyến này thuộc về An Nam.
Trên biên giới của tỉnh Vân Nam , hai bên thoả thuận là con đường phân giới sẽ được vạch như sau: ..................”
Các nhà đương cục địa phương Trung Quốc và các viên chức do Tổng Công sứ Cộng hoà Pháp ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ chỉ định sẽ được giao trách nhiệm tiến hành việc cắm mốc, theo đúng các bản đồ do Uỷ ban hoạch định biên giới vẽ và ký, và theo con đường biên giới nói trên.
Kèm theo văn kiện này có ba bản đồ, mỗi bản đồ làm thành hai bản, được hai bên ký tên và đóng dấu. Trên các bản đồ này, đường biên giới mới được vẽ thành một đường đỏ và ghi trên các bản đồ của Vân Nam bằng chữ cái tiếng Pháp và các tên hàng Can - Chi Trung Quốc.
Mảnh bản đồ thể hiện đường biên giới ở Quảng Đông có vẽ một đoạn ngắn đường đỏ ở phía Bắc Vịnh Bắc Bộ, từ điểm cuối của đường biên giới trên đất liền ở Móng Cái xuống phía Nam theo đường kinh tuyến Paris 105°43’. Đoạn đường này không có điểm kết thúc và được kèm theo chú thích là “tạo thành đường biên giới”.
Như vậy, căn cứ vào tên của Công ước Pháp - Thanh năm 1887 và nội dung của Công ước này chúng ta có thể dễ dàng nhận rõ:
- Đối tượng và phạm vi điều chỉnh của Công ước Pháp - Thanh năm 1887 là đường biên giới trên đất liền giữa Trung Quốc và Bắc Việt Nam .
- Mục tiêu chính của Công ước này là giải quyết dứt khoát việc hoạch định biên giới trên đất liền giữa Trung Quốc và Bắc Việt Nam . Mục tiêu phụ của Công ước này là quy thuộc chủ quyền đối với các đảo trong Vịnh Bắc Bộ. Công ước này không liên quan gì đến vùng biển nằm ngoài Vịnh Bắc Bộ, không liên quan gì đến các đảo ở Trung Kỳ và Nam kỳ của An Nam.
- Không có bất kỳ câu nào, chữ nào trong Công ước Pháp - Thanh năm 1887 đề cập đến các đảo mà Trung Quốc gọi là có tranh chấp ở Biển Đông. Như vậy, Công ước này không liên quan gì đến vùng biển và các đảo ở Biển Đông.
Cách suy diễn nêu trên của một số học giả người Trung Hoa là hoàn toàn không có cơ sở. Có thể dễ dàng nhận thấy điều thiếu lô gích trong cách suy diễn của họ là họ đã tách một phần câu chữ của Công ước Pháp - Thanh năm 1887 ra khỏi đối tượng, phạm vi điều chỉnh và mục tiêu của Công ước để diễn giải câu chữ đó trong một ngữ cảnh hoàn toàn khác theo chủ định của chính họ.
Cách diễn giải nêu trên của một số học giả Trung Hoa hoàn toàn thiếu khách quan, thiếu trung thực, trái với các thông lệ quốc tế cơ bản về giải thích các điều ước quốc tế đã được pháp điển hóa trong Công ước Viên năm 1969 về Luật điều ước quốc tế.
Công ước Viên 1969 nêu trên quy định việc giải thích các điều ước quốc tế phải mang tính trung thực (bonne foi), phải giải thích văn bản theo nghĩa thông thường của từ ngữ dưới ánh sáng của đối tượng và mục tiêu của điều ước (điều 31). Công ước này cũng cho phép xem xét đến bối cảnh và công việc chuẩn bị trước khi ký kết điều ước trong trường hợp cách giải thích ban đầu vẫn chưa hết nghi vấn hoặc dẫn đến những kết quả giải thích khác nhau (điều 32).
Vận dụng quy định của điều 32 của Công ước Viên năm 1969, chúng ta thử tìm hiểu thêm liệu bối cảnh và công việc chuẩn bị cho việc ký Công ước Pháp - Thanh năm 1887 có điểm gì có thể biện minh cho cách diễn giải nêu trên của một số học giả Trung Hoa hay không.
Xét về bối cảnh, Công ước Pháp - Thanh năm 1887 được ký vào thời kỳ hậu chiến tranh Pháp - Thanh nhằm tranh giành ảnh hưởng đối với Việt Nam, với phần chiến thắng thuộc về Cộng hòa Pháp, quân đội nhà Thanh phải rút khỏi Bắc Việt Nam (Bắc Kỳ) và công nhận sự hiện diện bảo hộ của Pháp đối với Việt Nam. Tranh thủ thế thắng, người Pháp đã thúc đẩy người Trung Hoa tăng cường quan hệ thương mại giữa hai bên, tạo thuận lợi cho Pháp chiếm lĩnh thị trường Trung Hoa (trước sự cạnh tranh của các đối thủ châu Âu khác). Trong bối cảnh đó, Pháp rất quan tâm đến xác định rõ ràng đường biên giới trên đất liền giữa Bắc kỳ thuộc Pháp với Trung Hoa để hỗ trợ cho quan hệ thương mại. Không có chứng cứ lịch sử nào cho thấy hai bên quan tâm tới việc xác định rõ ràng các vùng biển và các hải đảo nằm ngoài khu vực Vịnh Bắc Bộ vào thời điểm này. Cho tới nay người Trung Quốc cũng không viện dẫn được bất kỳ chứng cứ nào như vậy.
Xét về các công việc chuẩn bị cho việc ký kết Công ước Pháp - Thanh năm 1887, các nhà sưu tầm không tìm thấy bất kỳ tài liệu nào chứng tỏ đã có bên này hay bên kia nêu vấn đề các đảo ở ngoài khu vực Vịnh Bắc Bộ trong quá trình đàm phán thỏa thuận các điều khoản cụ thể của Công ước. Nếu có những tài liệu như vậy chắc chắn các học giả Trung Quốc đã không ngần ngại để đưa ra. Điều này càng được thể hiện rõ nét hơn khi Trung Quốc đã không viện dẫn Công ước Pháp - Thanh năm 1887 để đòi hỏi chủ quyền đối với các đảo ven bờ nằm rải rác trên vùng biển Trung Kỳ và Nam Kỳ của An Nam (Việt Nam) và nằm ở phía Đông đường kinh tuyến Paris 105043’.
Năm 1932, Pháp đã có công hàm kịch liệt chống lại công hàm của Trung Quốc viện dẫn Công ước Pháp - Thanh năm 1887 để giải thích các đảo ở Biển Đông thuộc Trung Quốc. Trong công hàm của mình, Pháp giải thích các điều khoản của Công ước Pháp - Thanh năm 1887 “không có mục đích nào khác là ấn định đường biên giới biển giữa Trung Quốc và Bắc Kỳ ở khu vực Móng Cái, sáp nhập vào Trung Quốc một số lãnh thổ và đảo nằm ở phía Đông cửa sông Móng Cái mà trước đó vốn thuộc về An Nam. Để đơn giản hóa, đường kinh tuyến Paris 105043’ đã được chọn như là một con đường phân giới. Nhưng từ lời văn của thỏa thuận thấy rõ là điều khoản này chỉ đặc biệt đề cập đến khu vực Móng Cái. Muốn áp dụng điều khoản đó cho quần đảo Hoàng Sa nằm cách khoảng 300 hải lý về phía Đông Nam sẽ dẫn tới việc nói rằng tất cả những gì nằm ở phía Đông của kinh tuyến Paris 105043’ là thuộc Trung Quốc. Như vậy Trung Quốc có thể yêu sách phần lớn các đảo ven bờ của Đông Dương, nhất là đảo Poulo Cecir. Các hậu quả vô lý của lập luận như vậy chứng tỏ rằng chỉ có thể cho điều khoản của Công ước Pháp - Thanh năm 1887 một giá trị giới hạn khu vực”.
Những phân tích trên đây chỉ có thể đưa chúng ta đến một kết luận đúng đắn duy nhất là đường Bắc - Nam chạy qua mũi phía Đông của đảo Tchá - Kou (Trá Cổ), theo đường kinh tuyến Paris 105043’ đã được quy định trong Công ước Pháp - Thanh năm 1887 chỉ là đường quy thuộc các đảo trong Vịnh Bắc Bộ. Về kỹ thuật, vì muốn đơn giản hóa cách thể hiện văn bản nên Công ước đã không kể tên tất cả các đảo. Cách thể hiện văn bản như vậy vừa nhằm tránh làm cho văn bản quá công kềnh khi phải kể tên tất cả các đảo hoặc có thể bỏ sót các tên các đảo nhỏ, vừa tránh phải quy thuộc lại mỗi khi có đảo mới được hình thành. Có thể nói đây là một lực chọn kỹ thuật có tính chất “nhất cử, lưỡng tiện”, vừa bảo đảm được tính bao quát, vừa bảo đảm được tính cụ thể. Đây cũng là cách thể hiện văn bản khá phổ biến trong thực tiễn điều ước quốc tế trong thời kỳ lúc bấy giờ.
Mặt khác, theo các tài liệu công khai về kết quả đàm phán giữa Trung Quốc và Việt Nam về phân định ranh giới các vùng biển trong Vịnh Bắc Bộ năm 2000 thì hai nước Trung - Việt đã thống nhất xác định các vùng biển trong Vịnh Bắc Bộ theo một ranh giới hoàn toàn khác với đường kinh tuyến 105043’ và cũng không có tài liệu nào nhắc tới hoặc bảo lưu đường kinh tuyến Paris 105043’ đối với các đảo ven bờ nằm rải rác trên vùng biển miền Trung và miền Nam Việt Nam và nằm ở phía Đông đường kinh tuyến Paris 105043’. Như vậy, có thể khẳng định bằng việc ký Hiệp định phân định các vùng biển trong Vịnh Bắc Bộ năm 2000 hai nước Trung – Việt đã chính thức coi đường kinh tuyến Paris 105043’ được quy định trong Công ước Pháp - Thanh năm 1887 chỉ là đường quy thuộc các đảo trong Vịnh Bắc Bộ mà thôi.
Tóm lại: Những phân tích trên đây đã làm sáng tỏ sự thật lịch sử không thể tranh cãi là việc viện dẫn Công ước Pháp – Thanh năm 1887 để khẳng định rằng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường thuộc về Trung Quốc là không có cơ sở pháp lý và thực tiễn…Chẳng qua, vì lòng tham vô đáy Trung Quốc đã tự vẽ ra cái "đường lưỡi bò" ngược ngạo để kiếm cớ liếm hết biển Đồng...
BVB
> (còn tiếp)
---------------
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét