Vụ Hiệu trưởng mua dâm lùm xùm cả tuần nay, mỗi ngày xử phúc thẩm lại tòi ra một bí mật cho thấy sự đồi bại đang nằm sau vụ án đồi bại kia. Sở dĩ như vậy vì cả ông hiểu trưởng Sầm Đức Xương và hai cô học trò Nguyễn Thị Hằng, Nguyễn Thị Thanh Thúy đều phản cung.
Ông Xương thì nói ông bị công an huyện Vị Xuyên bắt tạm giam tại nơi làm việc. Việc xét hỏi kéo dài từ chiều 07/09/2009 đến 01h sáng ngày hôm sau, mệt mỏi và sợ hãi nên ông đã nhận bừa. Ông nói:Trước hết, tôi là một nhà giáo, một hiệu trưởng, tôi không bao giờ làm cái việc đồi bại là ngủ với học sinh của mình. Thứ hai, tôi bị bệnh tiểu đường và viêm tinh hoàn, 3 năm trở lại đây không còn khả năng quan hệ tình dục.Thứ ba: trước khi bị bắt 02 ngày tôi có nhận được một cuộc điện thoại nói rằng sẽ có một nhóm học sinh và một nhóm người sẽ đứng ra tố cáo tôi. Tôi cho rằng mình bị người khác hãm hại, mất toàn bộ công danh, sự nghiệp.
Cái thứ nhất có thể ông Xương nói dối nhưng cái thứ hai thì phải có thẩm định y tế mới xác minh được. Sở y tế nói bệnh tiểu đường không ảnh hưởng tình dục, thì đúng rồi, nhưng nếu dùng thuốc chữa tiểu đường không biết cách sẽ liệt dương là cái chắc. Lại còn viêm hai hòn nữa. Toà muốn xử công minh tại sao toà không cho thẩm định y tế mà cứ xử? Ông Xương nói ông bị hãm hại cơ mà. Muốn tóng tù người ta toà phải chứng minh người ta không bị hãm hại, đó mới gọi là toà. Đó là câu hỏi thứ nhất.
Nhưng điều thứ ba ông Xương nói mới quan trọng:: Trước khi bị bắt 02 ngày tôi có nhận được một cuộc điện thoại nói rằng sẽ có một nhóm học sinh và một nhóm người sẽ đứng ra tố cáo tôi. Người gọi điện là ai? Kẻ đưa tin đồn nhảm hay kẻ nằm trong đường dây hãm hại ông Xương gọi điện doạ dẫm. Phải chăng Hà Giang cũng có một đường dây quyền lực vô hình tạm gọi là đường dây lợi hay hại. Nếu anh cung cúc tuân theo tất nhiên anh có lợi, nhược bằng ương ngạnh bất tuân coi chừng bóc lịch có ngày. Vậy thì tại sao toà không hỏi người gọi điện là ai để tróc cổ đến toà hỏi cho ra nhẽ. Hay là toà sợ, động đến đường dây lợi hay hại có khi toà cũng mất cái câu cơm cũng không biết chừng. Đó là câu hỏi thứ hai
Luật sư Nguyễn Văn Tú thì khẳng định: Bị cáo Xương không nói lời nói sau cùng như Biên bản phiên tòa đã ghi “Tôi thừa nhận hành vi phạm tội của mình và xin khoan hồng” trong khi trên thực tế bị cáo Sầm Đức Xương nói lời sau cùng là không thừa nhận phạm tội, không xin nhẹ hình phạt mà chỉ trình bày hoàn cảnh bản thân là trụ cột gia đình.
Biên bản phiên toà là biên bản biạ à? Hay vì cái biên bản này đã làm trước khi xử? Nếu đúng vậy thì nên xử luôn toà sơ thẩm mới thực sự công minh. Đó là câu hỏi thứ ba.
Hai cô học trò mới thực sự làm mọi người sửng sốt. Có lẽ tấn bi hài bắt đầu có từ đây. Nguyễn Thị Hằng đã khai trước tòa rất rõ ràng rằng cán bộ điều tra đã bắt Hằng ký vào biên bản điều tra trước, sau đó mới điền nội dung xét hỏi vào sau. Hằng bị yêu cầu phải ký vào các tờ giấy trắng dòng chữ “những điều khai trên là đúng sự thật” và ký tên ở cuối trang. Điều tra viên Nguyễn Văn Cường là người tiến hành điều tra xét hỏi bị cáo Hằng, thế nhưng, trong hồ sơ điều tra của công an huyện Vị Xuyên, cán bộ điều tra lại là người khác. Mặt khác, Kiểm sát viên Hà Quang Huy đã bắt Hằng phải học thuộc những lời khai trong cáo trạng để trả lời trước HĐXX phiên sơ thẩm. Hằng cũng bị ép buộc phải viết đơn từ chối luật sư (phiên sơ thẩm) và được hứa hẹn “làm như thế sẽ được giảm tội”.
Điều này có đúng không? Nếu đúng thì phải có một phiên toà khác xử tội làm sai lệch hồ sơ và trình tự tố tụng. Muốn biết đúng hay không đúng thì phải có điều tra, tức là phiên toà phải dừng lại để điều tra lại, bởi vì đây là tình tiết then chốt của vụ án. Tại sao toà không dừng mà vẫn tiếp tục xử? Đó là câu hỏi thứ tư.
Một danh sách mua dâm do hai cô học trò tung ra, gọi là danh sách đen bao gồm các đồng chí đảng viên ưu tú của tỉnh làm toà cũng phải giật mình. Đến đây thì biết toà sợ thật, đã cố lờ đi danh sách đó bao gồm những ai. Đặc biệt khi động đến ông quan đầu tỉnh Nguyễn Trường Tô thì không những toà sợ mà báo chí cũng sợ: Luật sư bào chữa cho Nguyễn Thị Hằng đã hỏi bị cáo: Vì sao bị cáo biết số điện thoại của ông NTT? Bị cáo trả lời: hôm đi ăn cơm, bác T ngồi cạnh và cầm điện thoại của Hằng nháy vào số máy bác T, sau đó bị cáo nhiều lần đến phòng làm việc của bác T trong UBND tỉnh. Bị cáo mô tả vào đó phải đi qua bảo vệ như thế nào, phòng bác trên tầng hai đi về phía cuối… Hội đồng xét xử và kiểm sát viên kiên quyết ngăn luật sư Tú tiếp tục hỏi về vấn đề này.
Các báo đưa tin thậm thà thậm thụt, khi thì bảo một vị quan chức, khi thì nói một lãnh đạo cao cấp, cuối cũng cũng chỉ dám viết tắt là ông T. Báo chí sợ hỏi sao toà không sợ. Tại sao lại phải sợ đến thế? Đây là câu hỏi thứ năm.
Sau phiên xử sơ thẩm, ông Tô đã nói rất hùng hồn, báo chí đăng rành rành: Chủ tịch UBND tỉnh Hà Giang Nguyễn Trường Tô cho rằng, hiệu trưởng mua dâm nữ sinh là một việc động trời, không thể hình dung được. Đây là một việc làm đáng xấu hổ và không thể chấp nhận với một thầy giáo đồng thời là người đứng đầu một trường cấp 3.
Tại sao khi bị cáo đã lên tiếng, báo chí đã đưa tin thì ông Tô không còn lên tiếng nữa. Ông là quan đầu tỉnh còn sợ ai nữa sao không lên tiếng? Tại sao toà không mời ông Tô đến để đối chứng, hay toà cũng sợ nốt. Đó là câu hỏi thứ sáu.
Chủ nhiệm Uỷ ban Kiểm tra (UBKT) Tỉnh ủy Hà Giang, ông Lê Quang Triều khẳng định: UBKT Tỉnh ủy Hà Giang đã nhận được văn bản của văn phòng Luật sư Vì Dân kèm theo “danh sách đen” những cá nhân tham gia mua dâm trẻ em vị thành niên, trong đó có nhiều cán bộ, Đảng viên trong các cơ quan quản lý Nhà nước của Hà Giang. Ông nói ông rất sửng sốt khi biết tin này. Chẳng rõ ông sửng sốt vì cái gi. Sửng sốt vì ông không ngờ các quan trong tỉnh đã mua dâm, trong đó có quan đầu tỉnh hay sửng sốt vì không thể tin nỗi tại sao người ta dám tung ra danh sách đen trong một phiên toà dưới chế độ tươi đẹp của chúng ta? Nếu ông Triều sửng sốt điều thứ nhất thì ông quá quan liêu, sửng sốt điều thứ hai thì ông quá ngu tín. Đó là câu hỏi thứ 7, cũng là câu hỏi cuối cùng.
Công lý không thể là trò chơi trốn tìm sự thật!
Hà Văn Thịnh – Đại học Khoa học Huế
Vụ án Hiệu trưởng mua dâm và những cô gái vị thành niên “môi giới mại dâm” đang đẩy luật pháp và công lý đến những giới hạn cuối cùng của sự chịu đựng. Tất cả đang diễn ra như một bộ phim mà nội dung của nó ai cũng biết rõ: Có những nhân vật đen, trong một danh sách đen đang cố tình làm sai lệch hồ sơ và kết quả của phiên tòa! Đó là điều không thể chấp nhận khi chúng ta luôn nói rằng sự “thượng tôn luật pháp” (rule of the law) là nguyên tắc, thực thể hiện hữu trong thể chế XHCN minh bạch, công bằng!
Thứ nhất, làm sao có thể hỏi cung “bị can” tuổi vị thành niên mà không có người giám hộ? Tại sao kiểm sát viên có quyền mớm cung cho phạm nhân rằng từ chối lời mời luật sư trong phiên xử sơ thẩm là con đường đúng để được giảm án? Tại sao điều tra viên (hỏi cung) là một người mà trong hồ sơ lại là tên của một người khác? Tại sao “phạm nhân” phải ký tên trước và điền lời khai vào sau? Tại sao người “môi giới mại dâm” đồng thời là nạn nhân lại là đồng phạm của kẻ thủ ác, kẻ mua dâm và “ban phát” cái đó cho bạn bè? Tại sao cả một bộ máy hành pháp có thể vô cảm và ngang nhiên đến vậy khi bức cung những đứa trẻ thiếu hiểu biết ở một vùng đất xa xôi, hẻo lánh như Hà Giang? Tại sao vi phạm quy trình tố tụng nghiêm trọng đến như thế (cả công an, viện kiểm sát, tòa án – Vietnamnet, 28.1.2010) mà vụ án vẫn được đem ra xử? Tại sao danh sách đen với 9 vị quan chức thuộc diện “tỉnh ủy quản lý” lại bị che dấu khi tội phạm là điều ai cũng rõ?... Quá nhiều câu hỏi cho một phiên tòa bất công, tệ hại và không thể biện minh.
Thứ hai, bộ máy tư pháp Việt Nam hiện nay đang vận hành với cách ứng xử của lệ làng coi thường phép nước là điều không cần phải chứng minh vì người viết bài này hiện đang bị các cơ quan chức năng làm khó dễ (đe dọa gián tiếp như gặp và làm việc với sếp để vồ đánh đục, đục gõ vào săng, săng hoang mang tìm đường ra nghĩa địa) vì đã công khai các sự thật (đã đăng tải trên các báo, có nghĩa là những điều cũ nhưng với cơ quan chức năng thì nó cứ mới) theo ngôn ngữ thiếu mềm dẻo. Ngôn từ là điều cần phải rút kinh nghiệm nhưng sự thật thì không. Rút đến tận cùng thì sự thật vẫn là sự thật. Cách làm của bộ máy tư pháp khi hai mạng người chết là 3 năm tù treo và hai con vịt bị biến thành đồ nhậu với mức án 13 năm tù ở là điều không thể tha thứ, cho dù là ở bất kỳ chế độ nào.
Trong phát biểu mới đây, ông Trương Tấn Sang – Thường trực Ban Bí thư Trung ương Đảng có nói rằng tham nhũng (đồng nghĩa với lộng hành, chuyên quyền quá đáng – tôi bổ sung, HVT) làm người dân mất lòng tin và trở thành một trong những nguy cơ lớn đe dọa đến sự sống còn của Đảng và chế độ (Vietnamnet, 28.1.2010). Đó là một nhận định chính xác. Khi niềm tin bị xói mòn, khi nhìn vào đâu cũng thấy sai, người dân biết tin vào ai?
Rất mong rằng Đảng ta luôn luôn sáng suốt và cẩn trọng để người dân có được niềm tin mới…
Huế, 29.1.2010. 20h45’. Tel: 0914.079.210
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét